
Phú ThọTòa xác định cha mẹ đã cho con thứ 4 toàn bộ 1.200 m2, nhận sổ đỏ từ 2005 để sử dụng ổn định, không ai tranh chấp nên việc các anh em ruột đòi chia là không có căn cứ.
Phán quyết được TAND tỉnh Phú Thọ công bố ngày 17/9, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nam, con trưởng, 75 tuổi và 8 anh em. Bị đơn Dũng, 66 tuổi, do đó được toàn quyền sử dụng 1.200 m2 đất, hiện vẫn do ông đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
“Đất đai là tài sản có giá trị, nhưng tình cảm anh em ruột thịt mới là điều thiêng liêng. Việc phân chia tài sản thừa kế trong gia đình nếu không có sự thỏa thuận, nhường nhịn, sẽ đẫn đến mâu thuẫn, rạn nứt tình cảm”, thẩm phán chủ tọa Nguyễn Quang Vũ nhắn gửi các đương sự sau khi tuyên án. Ông đánh giá vụ việc đã kéo dài 5 năm, trải qua 2 lần sơ thẩm, một phiên phúc thẩm, tổng cộng cũng gần chục lần 11 anh em đối đầu tại tòa vẫn chưa có tiếng nói chung là điều rất đáng tiếc.
Anh trưởng: Tôi thừa tiền, chỉ đòi đất xây từ đường cho con cháu
Vụ kiện tranh chấp tài sản thừa kế xoay quanh việc cha mẹ họ mua 1.200 m2 đất từ 1962 của người làng, chia cho ông Dũng, con thứ tư, cũng là bị đơn trong vụ án, 138 m2 làm nhà riêng.
Cha mẹ mất không để lại di chúc. Năm 2020, ông Nam họp 11 anh chị em bàn xây nhà từ đường trên 1.075 m2 còn lại nhưng ông Dũng thông báo: Toàn bộ 1.213 m2 đã đứng tên ông, được huyện Thanh Thủy cấp sổ đỏ từ 2005, khi mẹ còn sống.
Ông Nam cho rằng em trai đứng tên tài sản khi không có văn bản bố mẹ ủy quyền, tặng cho, không qua họp gia đình là trái luật. 7 anh chị em khác đã ủy quyền cho ông khởi kiện, đề nghị ông Dũng chỉ được giữ 138 m2, phần còn lại chia đều 11 người.
Ông Dũng cho hay có đầy đủ chứng cứ mình đã được bố mẹ chia đất. Ông không đồng ý việc “bỗng dưng” bị anh trưởng yêu cầu phân chia khi cuộc sống mọi người đều đã ổn định, êm đẹp hàng chục năm qua. Từ năm 1992, cha đã tới UBND xã làm thủ tục cho mình cả 1.213 m2 đất. Vì thế, ông tôn tạo, xây tường bao, đóng thuế đất và sử dụng ổn định, đăng ký trên sổ địa chính.
Theo ông Dũng, toàn bộ di sản thừa kế lâu nay đã được định đoạt xong, không ai có ý kiến gì về mảnh đất 1.213 m2 ông đang ở và đứng tên. Nhưng nay do “sốt đất”, các anh chị em “bỗng dưng đòi quyền lợi”, vì thế ông không chấp nhận.
Trình bày tại tòa hôm nay, anh trưởng Nam 3 lần khẳng định không tranh giành đất đai với em vì tiền. Ông đã già, nguyện vọng duy nhất là dùng đất này để xây từ đường, là nơi đoàn tụ anh em, con cháu để nhớ về tổ tiên, cha mẹ, ôn lại truyền thống tốt đẹp.
Ông Nam nói năm 1991, cha mẹ và hai em nhỏ còn ở trong ngôi nhà trên đất đó, đến năm 1995 mới xây dựng gia đình riêng xong. “Làm gì có chuyện cho chú đất mà cả nhà không được biết. Nói thế là không hợp đạo đức, chưa nói đến pháp lý”, ông trình bày.
Đại diện nguyên đơn cũng cho rằng, ông Dũng luôn khẳng định được bố mẹ cho nhưng “lật cả hồ sơ không có nổi một văn bản di chúc, không có chứng cứ về việc đã chia đất cho con thứ” thì cần xem xét lại việc này.
“Gia đình vốn rất nhiều con trai, theo truyền thống chẳng ai để lại hết cho một người thì làm sao tin được câu chuyện các cụ để lại hơn nghìn mét đất cho ông Dũng”, phía nguyên đơn suy luận.
Một vấn đề khác được VKS và HĐXX hỏi lại tại phiên tòa hôm nay là việc cha mẹ họ đã mua khu đất khác cùng xã và chuyển về nhà mới từ năm 1992. Trước việc người con trưởng giữ quan điểm đến lúc chết các cụ vẫn ở tại căn nhà trên đất đang tranh chấp, VKS hỏi: “Nếu ông nói trước nay bố mẹ luôn ở căn nhà cũ, tại sao khi mất lại mang lên nhà mới làm đám tang?”. Ông Nam đáp “các cụ chỉ thi thoảng lên đó chơi, trông hàng quán”.
Trong khi đó, ông Dũng khẳng định, ngay sau khi bố mất, năm 2005, anh trai đã nhân danh con trưởng xin mẹ họp các em để bán đất này cho em gái út với giá 180 triệu đồng, chia mỗi con trai 30 triệu, mỗi con gái 2 triệu đồng.
Trước thông tin này, tất cả anh em đứng đơn kiện đều nói “không nhận đồng nào hết”.
Đại diện VKS phân tích các đương sự có quyền trả lời theo ý muốn nhưng cái gì là sự thật, có chứng cứ vẫn là sự thật. “Nếu di sản bố mẹ đã chia rồi, tiền nhận rồi mà nói chưa nhận thì hẳn lương tâm các vị cũng cắn dứt. Tôi mong các ông bà, đều đã lớn tuổi cả rồi, hãy ngồi lại với nhau thỏa thuận, giữ tình anh em, hòa khí con cháu”, VKS nói sau khi đặt nhiều câu hỏi và nhận thấy thái độ đôi bên khá căng thẳng.
HĐXX liên tục nhắc các đương sự “khai báo chuẩn mực, không dùng ngôn từ xúc phạm”.
HĐXX: Xã làm sổ đỏ công khai, phát loa 15 ngày mà nói không biết là vô lý
Qua xét xử và xem xét chứng cứ, HĐXX nhắc lại trong phiên sơ thẩm lần thứ nhất và phiên phúc thẩm, hồ sơ liên quan việc cấp sổ đỏ cho ông Dũng không thu thập được, do UBND xã và huyện đều trình bày hồ sơ bị thất lạc.
Tuy nhiên ngày 28/3/2024, UBND xã nơi có đất tranh chấp, đã tìm ra và cung cấp chứng cứ, tài liệu thể hiện việc này, được coi là tài liệu then chốt trong giải quyết tranh chấp hiện tại.
Theo đó năm 2000, xã có đợt rà soát để cấp sổ đỏ đồng loạt cho người dân toàn xã, và ra quyết định thành lập Hội đồng xét duyệt gồm 10 thành viên để thẩm tra, xác minh, thảo luận và giải quyết từng đơn xin đăng ký sử dụng đất để xã trình cấp có thẩm quyền xem xét cấp sổ đỏ. Việc này được tổ chức công khai cho dân đăng ký hồ sơ và chính quyền giải quyết các trường hợp có khiếu nại.
Sau khi triển khai, tới ngày 30/6/2001, Hội đồng họp và thống nhất có 668 hộ không có tranh chấp, đủ điều kiện cấp sổ đỏ, giao địa chính xã hoàn thiện hồ sơ, trình huyện để cấp sổ cho 668 hộ này.
Ngày 1/7/2001, UBND xã đã niêm yết công khai hồ sơ đăng ký và danh sách 668 hộ tại trụ sở UBND xã đồng thời thông báo trên loa phát thanh. Sau 15 ngày, UBND xã không nhận được khiếu nại nào nên 15/7/2001 đã lập tờ trình gửi UBND huyện. Ngày 19/12/2005 sổ đỏ được cấp cho 668 hộ, trong đó có ông Dũng.
Như vậy kể từ khi UBND có chủ trương cấp sổ đỏ, cha mẹ các đương sự đều sinh sống ở địa phương, thửa đất này các cụ cũng chưa được cấp sổ nhưng các cụ và những người con khác không ai kê khai để đề nghị cấp sổ đỏ, ngoài ông Dũng. Từ đó khẳng định hai cụ đã đồng ý cho ông Dũng sở hữu mảnh đất này, tòa nêu quan điểm.
Mặt khác, mọi thủ tục đã được UBND xã thực hiện công khai, cấp đồng loạt cho 668 hộ đăng ký và đủ điều kiện, không phải cấp riêng cho trường hợp ông Dũng.
Sau khi niêm yết và thông báo công khai, hết thời hạn mà không có tranh chấp, Hội đồng xét duyệt mới làm thủ tục và sau gần 5 năm mới ra sổ. Do đó cần xác định hai cụ đã cho ông Dũng thửa đất trên và khi ông Dũng được cấp sổ, hai cụ và các con còn lại cũng không ai có ý kiến gì.
Theo tòa, việc ông Nam và những anh chị em còn lại cho rằng “không biết chủ trương cấp sổ đỏ của xã, không biết việc xã niêm yết danh sách và thông báo trên loa phat thanh”, là lời khai không khách quan, không có căn cứ. Nếu cho rằng cha mẹ không cho ông Dũng đất và vẫn sinh sống ổn định ở đó không giải thích được lý do năm 1992 các cụ lại ở trên thửa đất khác.
“Mặt khác nếu cho rằng cụ bà vẫn ở tại mảnh đất đang tranh chấp, chưa cho ông Dũng, tại sao khi bà mất lại không đưa về đây mà làm đám ma ở nhà mới, dù chỉ cách nhau 2 km”, tòa nêu.
Từ 1992 trở đi, theo các chứng từ, cha mẹ họ không nộp tiền sử dụng đất hằng năm cho mảnh đất 1.200 m2 mà người nộp là ông Dũng. Ông xây dựng công trình trên đất, cải tạo, lấp ao, liên tục dùng sổ để thế chấp, vay vốn tại nhiều ngân hàng nhưng cũng không anh chị em nào có ý kiến gì.
Ngoài ra, theo lời khai của cán bộ địa chính xã thời gian này, khoảng năm 1991, cụ ông có đến gặp và nói là cho con trai tư, tức ông Dũng, thửa đất này vì không giỏi buôn bán. “Cụ cho vợ chồng ông Dũng đất này để chăn nuôi, trồng trọt còn những người con khác đều biết kinh doanh, cho ở trên phố. Sau đó, cụ nhờ cán bộ địa chính này xóa tên mình ghi tên ông Dũng vào sổ đăng ký”, vị cán bộ cho hay.
Căn cứ danh sách này cùng các tờ bản đồ, xã đã làm các thủ tục cấp sổ sau đó cho ông Dũng. Ngoài ra, tòa cũng có nhiều lời khai khác của họ hàng thể hiện việc có được cụ ông nói về việc để lại đất cho ông Dũng.
Tòa nhận thấy về luật, việc tặng cho đất phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực tuy nhiên thực tế, nhiều trường hợp các bên không thực hiện thủ tục này nhưng đã thực hiện việc tặng cho. Bên tặng đã tặng đất, bên được tặng đã quản lý, sử dụng công khai, ổn định và liên tục. “Trong trường hợp này, luật công nhận đây là chiếm hữu ngay tình”, tòa nêu.
HĐXX do đó xác định việc tặng cho quyền sử dụng đất, thực tế đã hoàn thành và công nhận quyền sử dụng đất của người được tặng là ông Dũng và khẳng định 1.200 m2 đất này đã được cha mẹ để lại cho ông Dũng.
Tòa bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
Thanh Lam