
Phó đại diện thương mại Mỹ Karan Bhatia và Thứ trưởng thương mại Lương Văn Tự ký kết thúc đàm phán song phương với Mỹ về việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ngày 31-5-2006 tại TP.HCM
Tháng 11-1987, ông Lương Văn Tự (nguyên thứ trưởng Bộ Thương mại) may mắn gặp Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt, ông Kiệt giao cho ông một nhiệm vụ đặc biệt: Bằng mọi cách phải bình thường hóa quan hệ với Singapore và gia nhập ASEAN.
“Bối cảnh lúc bấy giờ buộc chúng ta phải mở cửa” – ông Tự hồi tưởng, sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam nằm trong vòng bao vây “tứ phía” và bị Mỹ cấm vận.
Đất nước gặp nhiều khó khăn, chưa kịp phục hồi sau chiến tranh lại tiếp hai cuộc chiến biên giới phía Bắc và Tây Nam, kinh tế rơi vào khủng hoảng, lạm phát có thời điểm lên tới hơn 700%, mà theo ông Tự đánh giá là “không thể tưởng tượng được”.
Cùng với chủ trương mở cửa là sự ra đời của Luật Thu hút đầu tư nước ngoài năm 1987 để hiện thực hóa chủ trương Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, ông Tự nói việc bình thường hóa quan hệ với Singapore và thúc đẩy đàm phán để Việt Nam gia nhập ASEAN sẽ giúp ta cân bằng quan hệ với các nước, tạo ra sự đối trọng toàn diện.
Vì thế, bằng các quan hệ ngoại giao, với vai trò là trưởng đại diện Việt Nam tại Singapore, ông Tự thu xếp nhiều chuyến thăm cho các lãnh đạo cấp cao nước ta sang Singapore để thúc đẩy, hiện thực hóa nhiệm vụ được giao.
Trong đó, chuyến thăm và làm việc của Bộ trưởng Bộ Thương mại Lê Văn Triết với Bộ trưởng Công Thương Lý Hiển Long; rồi chuyến thăm của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt vào năm 1991 đã đánh dấu việc bình thường hóa quan hệ của Việt Nam với Singapore, cũng như mở ra cánh cửa đưa Việt Nam vào ASEAN, chính thức gia nhập tổ chức này vào năm 1995, làm cơ sở để Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ.

Ông Lương Văn Tự chia sẻ những bức ảnh kỷ niệm được chụp lại trong thời gian đi đàm phán
Đàm phán hội nhập dài nhất
* Việc gia nhập ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Mỹ mở ra cơ hội để Việt Nam đàm phán gia nhập WTO – mở đầu cho hội nhập kinh tế quốc tế. Là trưởng đoàn đàm phán, điều gì khiến ông nhớ nhất?
– Cho đến nay, đàm phán WTO vẫn là một trong những cuộc đàm phán về hội nhập kinh tế quốc tế kéo dài nhất. Kéo qua ba đời thủ tướng, phó thủ tướng và ba bộ trưởng Bộ Công Thương. Chúng ta đã đàm phán với 149 nước và vùng lãnh thổ, trải qua 200 phiên đấu trí căng thẳng, trả lời 3.316 câu hỏi về cơ chế chính sách của Việt Nam, các vấn đề sửa đổi hệ thống pháp luật.
Vấn đề lớn là việc đàm phán phải gắn với sửa đổi các quy định pháp luật trong nước để làm sao phù hợp với tình hình mới, quy định của WTO. Đặc biệt là sức ép từ Mỹ khi họ yêu cầu sửa luật. Để đàm phán hiệu quả, mình đưa ra cam kết sửa 29 luật nhưng thực tế trước yêu cầu của đổi mới, chúng ta phải sửa tới 110 luật và pháp lệnh để phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do luật của chúng ta chắp vá, mỗi năm Quốc hội chỉ sửa được 5 luật, nên có chuyên gia nước ngoài nói Việt Nam mất khoảng 20 năm mới sửa xong được hệ thống pháp luật. Báo chí nước ngoài đưa thông tin này và càng tạo sức ép cho chúng ta.
Năm 2004, Mỹ bày tỏ sẵn sàng giúp Việt Nam làm một “master law” (luật để điều chỉnh các luật khác – PV). Tôi hỏi: “Làm master law mất bao lâu?”; phía Mỹ trả lời mất 2 năm, song tôi nghĩ nếu Việt Nam làm thì phải mất tới 4 năm.
Điều đó có thể khiến chúng ta mất cơ hội. Vì thế, tôi kiến nghị sửa điều 8 của Luật Điều ước quốc tế, tức là nếu cam kết quốc tế cao hơn nội luật thì được áp dụng theo cam kết quốc tế. Với đề xuất này, phía Mỹ đồng ý và chúng ta vừa có thời gian để sửa luật sau này, vừa có cơ hội để đàm phán.
Nhờ vậy, đàm phán với Mỹ kết thúc tại TP.HCM vào ngày 31-5-2006, Mỹ bỏ đạo luật bao vây cấm vận Jackson Venick và trao quyền thương mại thông thường vĩnh viễn với Việt Nam.

Ngày 3-10-1991, Bộ trưởng Bộ Thương mại Lê Văn Triết gặp Bộ trưởng Bộ Công Thương Singapore Lý Hiển Long trao đổi về việc mời Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt sang thăm và bình thường hóa quan hệ ngoại giao hai nước

Ông Lương Văn Tự đón ông Võ Văn Kiệt với vai trò là lãnh đạo Chính phủ sang bình thường quan hệ ngoại giao với Singapore
* Không chỉ đấu trí căng thẳng, yêu cầu mở cửa và đàm phán gia nhập WTO ngay sau khi chúng ta vừa kết thúc chiến tranh có gây nên những lo ngại ở trong nước không, thưa ông?
– Nếu như 200 phiên đàm phán với các đối tác là những phiên đấu trí căng thẳng thì những cuộc “đàm phán” trong nước cũng đối mặt với không ít sức ép, đặc biệt là những phiên giải trình trước các bộ ngành, địa phương, các hiệp hội, doanh nghiệp ngành hàng.
Do đó, yêu cầu đặt ra là làm sao để thông suốt về mặt tư tưởng, nhận thức và quan điểm của Đảng với vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng tôi thường xuyên họp với các thứ trưởng các bộ ngành để chia sẻ thông tin, thống nhất chúng ta sẽ mở cửa những gì, cam kết mức độ bao nhiêu.
Ngoài ra, tại các hội nghị giao ban hằng tháng của Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương, tôi có nhiệm vụ thông tin, báo cáo tổng biên tập các báo đài về tiến trình đàm phán, các cơ hội thách thức với Việt Nam từng lĩnh vực, từng ngành.
Tháng nào tôi cũng trao đổi, làm việc với các ban của Đảng, Quốc hội, các cơ quan thường vụ Quốc hội và đặc biệt là Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Mão để thông tin, nhấn mạnh yêu cầu cấp bách của việc sửa đổi pháp luật, không chỉ giúp chúng ta gia nhập WTO mà là cải cách nội tại bên trong.
Chúng tôi cũng đi vận động các vị lão thành cách mạng. Khi đó có ba tổ chức là Hội Cựu chiến binh, Câu lạc bộ Thăng Long và Câu lạc bộ Bạch Đằng – những người cựu binh đã hy sinh, đóng góp cho độc lập, tự do của đất nước, nên rất quan tâm và lo lắng việc gia nhập WTO.
Xác định lộ trình mở cửa
* Dư luận quốc tế, các tổ chức từ bên ngoài có quan điểm thế nào về cuộc đàm phán của Việt Nam, họ có tin rằng chúng ta thành công?
– Sức ép từ bên ngoài cũng căng thẳng không kém. Bởi nhiều nước, tổ chức coi chúng ta là nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp, kinh tế xã hội chủ nghĩa không phù hợp kinh tế thị trường. Có nhà báo hỏi: “Nền kinh tế thị trường với chế độ xã hội chủ nghĩa được ví như dầu và nước, nếu hòa nhập thì sao hòa tan được?”.
Tôi lựa chọn trả lời rằng: “Dù là dầu với nước, nhưng cả hai đều là chất lỏng, đều không có giới hạn nào cả”, và nhận được tràng vỗ tay của cả hội trường.
Hay khi đang đàm phán với Mỹ, cũng có câu hỏi rất thách thức: “Nếu Quốc hội Mỹ duyệt ném bom nguyên tử ở Khe Sanh, ngài nghĩ thế nào?”.
Tôi bình tĩnh nói: “Rất may Quốc hội Mỹ không đồng ý ném bom nguyên tử xuống Việt Nam, chứ nếu duyệt rồi thì tôi nghĩ ngày hôm nay chúng ta không có mặt ở đây”.
Khi gia nhập WTO, chúng tôi đã xây dựng dự thảo nghị quyết của Bộ Chính trị về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế (sau đó là nghị quyết 07/2001), đưa ra nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, không thể xuôi chiều, bảo sao nghe vậy.
Chúng ta xác định ba mục tiêu chính của hội nhập: Đó là có được thị trường, hàng hóa và dịch vụ toàn cầu; thu hút vốn và công nghệ; học tập kỹ năng quản lý của nền kinh tế thị trường. Với nghị quyết này, chúng tôi mạnh dạn triển khai mọi việc, hiện thực hóa mục tiêu đàm phán, gia nhập WTO.

Đoàn doanh nghiệp đầu tiên của Singapore đến thăm và làm việc với Ủy ban hợp tác và đầu tư. Sau đó đi thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám và chụp ảnh lưu niệm ngày 28-9-1993.
* Yêu cầu mở cửa nhưng phải bảo vệ được sản xuất trong nước, thêm sức ép từ các đối tác… đoàn đàm phán hóa giải thế nào để cân bằng được các yếu tố mang tính xung đột đó?
– Khi đàm phán, các nước yêu cầu chúng ta mở cửa thị trường một cách tối đa. Nhưng quan trọng là mình phải nghiên cứu khả năng chịu đựng của nền kinh tế, từng lĩnh vực. Chúng ta mở cửa mức độ bao nhiêu để tồn tại và phát triển.
Ví dụ như mở cửa thị trường sữa, tôi trực tiếp làm việc với chị Liên (tổng giám đốc Vinamilk), đặt vấn đề là Việt Nam có nhà máy sữa, nếu mở cửa thì ở mức độ bao nhiêu, giảm thuế thế nào để doanh nghiệp chịu đựng được.
Các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp được tham vấn, đóng góp về lộ trình mở cửa, phù hợp cho từng ngành hàng. Từ đó xác định ngành nào sẽ mở cửa trước, ngành nào mở cửa từ từ và mở cửa ngay, chứ không đưa ra chung chung.
Có những lĩnh vực quan trọng buộc phải áp dụng quota trong thời gian nhất định. Hoặc có những lĩnh vực chúng ta nhất quyết không mở cửa, như phân phối xăng dầu, thuốc lá hay lĩnh vực ngân hàng chỉ mở cửa có mức độ, không quá 25%, trong khi ngành viễn thông mở cửa nhiều nhất.

Đồ họa: TẤN ĐẠT
Nhân loại không bao giờ từ chối những gì tốt
* Với ông, phiên nào căng thẳng nhất, mất nhiều lần đàm phán?
– Đàm phán “căng” nhất là với EU, Mỹ và Trung Quốc. Trung Quốc yêu cầu mở cửa thị trường đường bộ khi WTO không có quy định; hay yêu cầu mở cửa thị trường ngân hàng, nhưng đây là thị trường chưa phát triển.
Với Mỹ, đàm phán thâu đêm là bình thường, hay thậm chí là phải đàm phán nhiều vòng. Có thời điểm, đàm phán đạt rồi, nhưng phiên sau lại đổi người, phủ nhận hết các kết quả phiên trước, khiến chúng tôi phải đàm phán lại. Nhiều lĩnh vực họ muốn mình mở cửa tối đa, nhưng Việt Nam không thể chấp nhận, cố gắng giữ quan điểm xuyên suốt ở các phiên.
Ví dụ như ngành dệt may, đây là lợi thế của chúng ta, nhưng Mỹ muốn áp hạn ngạch trong khi WTO không có hạn ngạch. Thậm chí, phía bạn còn yêu cầu lập ra một tổ chức để theo dõi và kiểm tra việc thực hiện các cam kết của Việt Nam, song dứt khoát mình không tán thành. Tôi nhớ khi đó mấy đêm liền “đấu” với bạn ở Washington, đạt kết quả như mong đợi và vòng đàm phán cuối cùng diễn ra ở TP.HCM vào ngày 31-5-2006.
Nhưng để đạt được kết quả đó cũng không đơn giản. Cùng với đàm phán là quá trình vận động các hiệp hội ngành hàng dệt may của Mỹ thúc đẩy hợp tác để từ đó, họ đi vận động các thượng nghị sĩ Mỹ để có tiếng nói; tích cực làm việc với hãng máy bay Boeing, một số hãng xe phân phối lớn là những doanh nghiệp đang có quan hệ tốt với tổng thống Mỹ lúc đó.
Mình cũng mở cửa thị trường cho hãng bảo hiểm nhân thọ của Mỹ vào Việt Nam, nhưng yêu cầu họ đi vận động các giới chính ở Mỹ, bày tỏ ủng hộ cho ngành dệt may của Việt Nam để khi ta có công ăn việc làm, có thu nhập sẽ mua bảo hiểm. Nhờ vậy chúng ta mới có kết quả như mong muốn.
* Những thành quả WTO có được là không thể phủ nhận và Việt Nam đã tham gia ngày càng nhiều các FTA thế hệ mới. Để tận dụng cơ hội từ hội nhập kinh tế, ông có lời khuyên gì?
– Những thành quả gia nhập WTO và các FTA mang lại là kết quả của đường lối hội nhập đúng đắn của Đảng, Chính phủ; việc tổ chức thực hiện quyết liệt của các bộ ngành, đặc biệt là sự đóng góp công sức, kiên trì đàm phán thông minh và sáng tạo của tất cả các thành viên đoàn đàm phán.
Quốc hội đã có tổng kết chỉ ra, việc gia nhập WTO là quan trọng, cơ bản, mở ra các hội nhập kinh tế quốc tế khác. Chúng ta có thị trường toàn cầu, hệ thống pháp luật ngày càng được sửa đổi và hoàn thiện phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thu hút vốn công nghệ, đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp bỏ tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước và tự chủ trong sản xuất.
Đến nay, Việt Nam là một trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, duy trì xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp, duy trì nền kinh tế có độ mở cao, tới 200% GDP, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 730 USD lên 4.700 USD.
Thế nhưng, vẫn còn những điều tôi trăn trở. Đó là tốc độ phát triển của doanh nghiệp Việt Nam chưa cân xứng. Vấn đề chuyển giao công nghệ vẫn thấp, cũng như sự phát triển của thị trường nội địa còn hạn chế.
Tôi nhớ năm 1990 khi bay sang Đài Loan (Trung Quốc) để giới thiệu về Luật Đầu tư, có nhà báo hỏi rằng: “Ở Việt Nam có tư nhân không?”. Khi đó, tôi nghĩ nếu trả lời là “có” thì sẽ vi phạm quy định, nhưng nếu nói không thì các nước sẽ không hợp tác.
Vì vậy, tôi chọn cách trả lời bằng việc đặt lại câu hỏi là: “Vậy tư nhân có ưu điểm gì?” và được trả lời rằng doanh nghiệp tư nhân sẽ năng động hơn, chi phí quản lý thấp, cạnh tranh cao, tạo nhiều công ăn việc làm. Đáp lại, tôi chỉ đưa ra câu khẳng định: “Nhân loại không bao giờ từ chối những gì tốt”.
Vừa qua, với nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, hay nghị quyết 57 về thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ mà Bộ Chính trị đưa ra, tôi mong rằng sẽ tạo điều kiện thực chất cho doanh nghiệp trong nước, kinh tế tư nhân phát triển.
Thực tế, tổng kết của WTO chỉ ra, sau COVID-19, có tới 3.000 rào cản thương mại mới, đưa thế giới bước sang giai đoạn thương mại mới. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao năng lực cho nền kinh tế, hạt nhân là các doanh nghiệp tư nhân.
Chúng ta cũng cần tiếp tục duy trì đường lối hội nhập sâu rộng, trọng tâm là tích cực hội nhập với các nước – những nền kinh tế mới nổi, ưu tiên khối BRICS, để có thể tận dụng và mở ra cơ hội mới.
Năm 1995 chúng ta bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, năm 2000 Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) được ký kết thì mãi đến khi kết thúc đàm phán WTO vào năm 2006, Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) mới được Mỹ chấp thuận, đánh dấu bước tiến lớn trong bình thường hóa quan hệ thương mại hai nước.