Các nhà máy điện than của Ấn Độ đang phải “cạnh tranh” nguồn nước với chính người dân giữa bối cảnh nguồn nước nhiều nơi cạn kiệt.
Rajani Thoke (quận Solapur, bang Maharashtra) kể suốt mùa hè, không thể tập trung vào bất cứ điều gì khác ngoài việc tính toán trữ nước, giặt đồ. Nước được cung cấp mỗi tuần, thậm chí lâu hơn. Cô là mẹ của hai đứa nhỏ, phải kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng nước của gia đình.

Một bé gái phủ nilon lên một chiếc bình đựng nước để chắn bụi bên cạnh một máy ATM nước ở Solapur, Ấn Độ, ngày 3/3. Ảnh: Reuters
Cũng như Rajani, người dân quận Solapur đang trong những tháng khắc nghiệt nhất. Solapur cách thành phố Mumbai, thủ phủ của Maharashtra, khoảng 400 km. Mùa hè, nhiệt độ tăng cao, nguồn nước cạn kiệt.
8 năm trước, một nhà máy điện than công suất 1.320 MW do NTPC, một công ty điện do Nhà nước kiểm soát, bắt đầu vận hành. Nước cần cho các nhà máy điện than trong hoạt động làm mát và tạo hơi nước.
Nhà máy 1,34 tỷ USD này cấp điện cho quận, tạo việc làm cho 2.500 người, nhưng cũng cạnh tranh với người dân và doanh nghiệp khác để dùng nước cung ứng từ hồ chứa trong khu vực. Trước khi nhà máy này đi vào hoạt động, nước được cung cấp cách ngày.
Solapur là một ví dụ điển hình cho thế tiến thoái lưỡng nan Ấn Độ đang phải đối mặt, nơi chiếm 17% dân số thế giới nhưng chỉ tiếp cận được 4% nguồn nước. Quốc gia đông dân nhất thế giới lên kế hoạch chi gần 80 tỷ USD xây các nhà máy điện than vào năm 2031, đáp ứng nhu cầu năng lượng cho các ngành công nghiệp đang phát triển, gồm các trung tâm dữ liệu.
37/44 dự án mới nằm ở những khu vực được phân loại thiếu hoặc căng thẳng về nguồn nước. Tính riêng NTPC, 98,5% lượng nước sử dụng của họ đến từ các khu vực thiếu nước, mặc dù khẳng định “liên tục nỗ lực bảo tồn nước tại Solapur”.

Khả năng cung cấp nước cho mỗi người dân Ấn Độ. Đồ họa: Reuters
Năm 2017, Bộ Năng lượng trả lời trước Quốc hội rằng vị trí của các nhà máy điện than được xác định bởi khả năng tiếp cận đất đai và nước. Họ thêm rằng chính quyền bang có trách nhiệm phân bổ nước cho các nhà máy này. Tuy nhiên, hai quan chức ngành nước tiết lộ rằng yếu tố được cân nhắc chủ yếu là khả năng tiếp cận đất đai.
Luật Đất đai phức tạp và khó hiểu của Ấn Độ đã trì hoãn nhiều dự án thương mại và cơ sở hạ tầng trong nhiều năm. Rudrodip Majumdar, giáo sư về năng lượng và môi trường tại Viện Nghiên cứu tiên tiến quốc gia ở Bengaluru, lý giải rằng doanh nghiệp ngành điện đã chọn những khu vực ít nguy cơ phản đối, bất chấp nguồn nước ở rất xa.
Bộ Năng lượng cũng như các cơ quan về nước ở bang Maharashtra không phản hồi vấn đề này.
Delhi đã đầu tư mạnh vào các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời và thủy điện, nhưng các nhà máy nhiệt điện “khát nước” vẫn sẽ chiếm ưu thế trong những thập kỷ tới.
Ram Vinay Shahi, một cựu quan chức năng lượng hàng đầu Ấn Độ, nói việc dễ tiếp cận điện năng có tầm quan trọng chiến lược với nước này, nơi có mức tiêu thụ điện bình quân đầu người thấp hơn nhiều so với Trung Quốc, đối thủ trong khu vực. Trong khi đó, nguồn năng lượng Ấn Độ có nhiều nhất là than. Và tất nhiên, nếu phải lựa chọn giữa nước và than, than được ưu tiên hơn”.
Thực tế, thiếu nước không chỉ là vấn đề của người dân, bản thân nhà máy điện than tại Solapur cũng chật vật. Tổ máy đầu tiên đáng lẽ phát điện vào giữa năm 2016, nhưng bị trì hoãn 12 tháng bởi tình trạng thiếu nước nghiêm trọng. Việc thiếu nguồn nước lân cận đồng nghĩa với việc nhà máy phải lấy nước từ hồ chứa cách đó khoảng 120 km, gây tăng chi phí và nguy cơ trộm nước.
Tính đến tháng 5/2023, đây là một trong những nhà máy kém hiệu quả nhất về nước, theo hồ sơ liên bang mới nhất. Theo Trung tâm Khoa học và Môi trường có trụ sở tại Delhi, các nhà máy điện than của Ấn Độ thường tiêu thụ lượng nước gấp đôi so với nhà máy tương đương trên toàn cầu. Trong khi đó, tình trạng thiếu nước nghiêm trọng khiến Solapur vật lộn trong thu hút đầu tư.

Đồ họa: Reuters
Tình trạng thiếu nước buộc các nhà máy phải ngừng phát điện. Theo dữ liệu liên bang, cộng gộp từ năm 2014, Ấn Độ đã mất khoảng 19 ngày phát điện trên toàn quốc.
Bên cạnh Solapur, nhà máy nhiệt điện Chandrapur công suất 2.920 MW, một trong những nhà máy lớn nhất Ấn Độ, cũng khó khăn vì thiếu nước trầm trọng. Họ đã đóng cửa một vài tổ máy trong nhiều tháng khi lượng mưa ít hơn bình thường, theo dữ liệu từ Viện Quốc gia về Chuyển đổi Ấn Độ (NITI Aayog).
Bất chấp tình trạng này, nhà máy đang cân nhắc nâng thêm 800 MW công suất mới. Nhà máy chưa xác định được nguồn nước cho hoạt động mở rộng, mặc dù đã có sẵn nguồn than.
Tám năm trước, tình trạng “khát nước” của nhà máy đã dẫn đến căng thẳng với cư dân thành phố Chandrapur. Trước phản ứng của dân địa phương trong đợt hạn hán năm 2017, nhà chức trách địa phương phải yêu cầu điều hướng nước đến các hộ gia đình. Tuy nhiên, Sudhir Mungantiwar, một nhà lập pháp địa phương, ủng hộ việc mở rộng nhà máy, với niềm tin rằng hoạt động này sẽ thay thế các tổ máy cũ kém hiệu quả trước đây.
Tiếc là sau gần thập kỷ, những tổ máy công suất 420 MW, gây ô nhiễm và ngốn nước vẫn chưa ngừng hoạt động. Bởi nhu cầu điện tăng đột biến, chính phủ Ấn Độ buộc các công ty điện không được ngưng các nhà máy nhiệt điện cũ trước cuối thập kỷ này.
Bảo Bảo (theo Reuters)