GS Hoàng Xuân Hãn – học giả yêu nước

GS Hoàng Xuân Hãn – học giả yêu nước – rss

Trí tuệ và lòng yêu nước đã đưa giáo sư Hoàng Xuân Hãn từ phong trào cách mạng đến đỉnh cao học thuật, trở thành học giả uyên bác của Việt Nam thế kỷ 20.

Giáo sư Hoàng Xuân Hãn sinh năm 1908 trong gia đình có truyền thống Nho học ở xã Đức Nhân, huyện Đức Thọ, nay là xã Đức Quang. Thuở nhỏ, ông học chữ Hán và chữ Quốc ngữ tại Vinh (Nghệ An), sau đó chuyển ra Hà Nội thi vào Trường Bưởi, một năm sau chuyển sang học chuyên Toán ở Trường Trung học Albert Sarraut. Năm 1929, sau khi đỗ tú tài toàn phần và sang Pháp du học, ông lần lượt thi đỗ vào nhiều trường danh tiếng như: Sư phạm, Bách khoa, Sorbonne.

Năm 1936, ở tuổi 28, ông trở về nước với hai bằng kỹ sư cầu đường và thạc sĩ Toán. Chính quyền Pháp mời giữ chức Giám đốc Công chính, nhưng ông từ chối vì điều kiện là phải nhập quốc tịch Pháp. Ông chọn dạy học ở Trường Bưởi để “được làm người Việt Nam, đào tạo thanh niên Việt Nam”.





Giáo sư Hoàng xuân Hãn. Ảnh: Tư liệu

Giáo sư Hoàng xuân Hãn. Ảnh: Tư liệu

Người thầy khơi mở tư duy

Dạy Toán ở lớp tú tài bậc trung học, ông tự soạn giáo trình, quan tâm phát huy óc suy luận, trí thông minh của học sinh. Khi lên lớp, ông thường không mang dụng cụ gì theo. Bằng tay không, ông vạch “những đường thẳng thật thẳng, vẽ đường tròn thật tròn, không bắt buộc mỗi phân môn phải có vở ghi chép riêng”.

Từng có thời gian dài học tập ở Pháp và tham gia dạy học ở trường Bưởi với giáo sư Hoàng Xuân Hãn, GS.TS Nguyễn Mạnh Tường cho hay dù kiến thức rộng, GS Hãn là người thầy đức độ, khiêm tốn. “Ông sẵn sàng giúp đỡ bất cứ ai gặp khó khăn, luôn tươi cười, kể cả lúc ai đó khiến ông không hài lòng”, GS.TS Tường viết trong bài đăng trên sách La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn.

Ở trên lớp, ông ân cần khuyên bảo, không hề trách mắng khi học trò chưa tìm ra được lời giải, hay đang băn khoăn trước bài toán khó. “Thái độ điềm đạm của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã có tác dụng thuyết phục học trò và dường như ông không để ai phiền lòng”, GS Tường kể lại.

Ngoài giảng dạy ở Trường Bưởi, giáo sư Hoàng Xuân Hãn còn được mời giảng môn Toán ở các Trường Đại học Công chính, Canh nông và Đại học Hà Nội. Năm 1942, ông cùng với một số bạn bè như GS Nguyễn Xiển, Tạ Quang Bửu sáng lập báo Khoa học, tờ báo khoa học có trình độ tương đối cao. Giáo sư Hãn là biên tập viên kiêm tác giả, thường giải các bài toán vui liên quan đến đời sống thực tiễn, thiên văn, địa lý, lịch sử, văn hóa của phương Đông và Việt Nam.

Năm 1943, ông bắt tay soạn tập sách Danh từ khoa học với hơn 6.000 từ mục, dùng tiếng Việt để diễn đạt hàng loạt khái niệm khoa học thuộc các bộ môn Toán học, Lý học, Hóa học, Cơ học và Thiên văn học vốn chưa có bao nhiêu từ ngữ bằng tiếng Việt lúc ấy. Năm 1943, sách được giải thưởng của Hội Khuyến học Nam Kỳ với ý nghĩa công trình mở đường cho việc xây dựng khái niệm và thuật ngữ khoa học của Việt Nam.

Nhắc đến việc sáng lập báo và soạn sách khoa học, giáo sư Hoàng Xuân Hãn chia sẻ trong hồi ký rằng trước đây khi học ở Vinh hay Hà Nội “đã sớm nhận thấy nếu thiếu phần tối thiểu về khoa học thì mọi người không thể có lý luận chính xác nghiêm túc”. Vì thế, năm 1930, khi học ở Pháp, ông bắt đầu nghĩ đến việc đặt Danh từ khoa học cho có nền tảng hữu lý và quốc gia.

Cũng trong năm 1943, khi Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ thành lập, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đảm nhiệm chức Trưởng ban Tu thư và cùng một số người công bố cuốn sách Phương pháp học i tờ, đổi mới cách học chữ Quốc ngữ theo lối đánh vần a, b, c, giúp người học nắm được chữ nhanh chóng.

Khi phong trào “Diệt giặc dốt” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động và được hưởng ứng trong cả nước, phương pháp học chữ Quốc ngữ của giáo sư Hoàng Xuân Hãn trở thành chủ đạo, giúp hàng triệu người có thể thoát nạn mù chữ chỉ trong ba đến sáu tháng.

Tháng 4/1945, giáo sư Hoàng Xuân Hãn tham gia Chính phủ lâm thời của Trần Trọng Kim, đảm nhận chức Bộ trưởng Giáo dục – Mỹ thuật và quyền Bộ trưởng Công chính. Hơn bốn tháng làm việc, ông đề xuất và thực hiện một số cải cách, bước đầu gợi ý tưởng cho cải cách giáo dục sau này như chương trình giáo dục cấp ba với việc chia ngành ở cấp chuyên khoa, thay giảng dạy bằng tiếng Pháp sang tiếng Việt (kỳ thi tú tài năm 1945 là kỳ đầu tiên thi bằng tiếng Việt).

Sau Cách mạng tháng Tám, ông cùng một số trí thức tiêu biểu được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời gặp. Tháng 4/1946, ông được cử làm Trưởng Tiểu ban Chính trị trong phái đoàn nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Việt – Pháp ở Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng). Sau hội nghị, ông ở lại giảng dạy môn kỹ thuật quân sự cho các khóa huấn luyện đầu tiên của Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.





Tiểu sử Giáo sư Hoàng Xuân Hãn được gắn trước phòng học ngoại ngữ của Trường Cầu đường Paris (Ponts et Chaussées). Ông được vinh danh là một trong 100 sinh viên tiêu biểu nhất, tên của ông cũng được đặt cho giảng đường đại học của trường. Ảnh: Tư liệu

Tiểu sử giáo sư Hoàng Xuân Hãn được gắn trước phòng học ngoại ngữ của Trường Cầu đường Paris (Ponts et Chaussées). Ông được vinh danh là một trong 100 sinh viên tiêu biểu nhất, tên của ông cũng được đặt cho giảng đường đại học của trường. Ảnh: Tư liệu

Học giả uyên bác

Kháng chiến toàn quốc nổ ra, giáo sư Hoàng Xuân Hãn bị “kẹt” lại trong lòng Hà Nội. Thời gian này, ngôi nhà nơi gia đình ông sinh sống trở thành cơ sở ở nội thành, bí mật liên lạc với kháng chiến và ủng hộ tài chính, thuốc men. Đến năm 1950, ông cùng các thành viên trong gia đình sang Paris định cư.

Ông đã đến Hội nghị Geneve năm 1954 trong những ngày tổ chức nhóm họp tại Thụy Sĩ, đóng góp ý kiến cho phái đoàn Việt Nam do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Ông sau đó tham gia tổ chức Việt kiều yêu nước tại “xứ sở lục lăng”, hoạt động tuyên truyền cho công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc cũng như phong trào hòa bình thế giới.

Giáo sư Hoàng Xuân Hãn tích cực nghiên cứu các công trình văn hóa, khoa học, đi sâu vào lĩnh vực nguyên tử và thi lấy bằng kỹ sư nguyên tử ở Đại học Saclay.

Ông dành nhiều năm nghiên cứu lịch và lịch Việt Nam (công bố trên Tập san Khoa học xã hội năm 1982), vận dụng toán học và máy tính điện tử để lập lại hệ thống lịch Việt Nam, chứng minh có những thời kỳ lịch Việt Nam khác lịch Trung Quốc, đưa ra những phương thức tính toán chuyển đổi âm – dương một cách chuẩn xác, tiện lợi. Đây là công trình quan trọng về thiên văn học của đất nước, là cơ sở khoa học đặt nền móng để xây dựng nền lịch pháp Việt Nam.

Giáo sư đã nghiên cứu, phát hiện nhiều di chỉ và di vật có giá trị, gợi ý địa điểm mà trước kia từng tìm thấy, trên cơ sở đó Viện Khảo cổ đã tìm ra một số di chỉ. Chẳng hạn, năm 1942, trong chuyến điền dã ở vùng sông Lèn (Thanh Hóa), ông phát hiện dấu tích nền móng cổ tại khu vực “vòng tay ngai” núi Kim Âu, nhận định đây là Bảo Thanh cung (Ly cung Trần – Hồ) gắn với Hồ Quý Ly thế kỷ 14.

Các đợt khai quật sau này đã làm lộ rõ nền móng và nhiều di vật quan trọng. Năm 1997, Ly cung Trần – Hồ được công nhận Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, hiện là điểm tham quan phụ cận của Di sản văn hóa thế giới thành nhà Hồ.

Nhiều tác phẩm lịch sử và văn học của ông luôn thể hiện tinh thần yêu nước, ủng hộ các cuộc kháng chiến của dân tộc, đặt dấu mốc quan trọng cho phương pháp nghiên cứu, sưu tầm, xử lý tư liệu như: Lý Thường Kiệt (1949), Mai Đình mộng ký (1951), La Sơn phu tử (1952), Chinh phụ ngâm bị khảo (1953)…

Trong lời tựa của sách Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tôn giáo triều Lý – công trình tiêu biểu về một giai đoạn chống Tống của Đại Việt, được tái bản năm 2015, giáo sư Hoàng Xuân Hãn từng viết: “Mong ai nấy thấy rằng lòng dũng cảm, chí quật cường của dân tộc ta ngày nay có cỗi rễ rất xa xăm. Mong ai nấy nhận thức một cách rõ ràng, cụ thể, sự nguy hiểm của một cuộc ngoại xâm, nhận thấy sự lo việc nước không phải chỉ ở đầu lưỡi, mà cần hết cả lòng hy sinh”.

Là đồng nghiệp, đồng hương, giáo sư, nhà sử học Phan Huy Lê đánh giá ông Hoàng Xuân Hãn “rất Nghệ Tĩnh, bình dị, tình cảm và trí tuệ”. Có lần, GS Lê hỏi GS Hãn: “Bác là một nhà toán học, một nhà vật lý nguyên tử, một kỹ sư cầu đường, nhưng tại sao lại say mê và dành phần lớn cuộc đời vào nghiên cứu lịch sử và văn hóa dân tộc?”.

GS Hãn đã trả lời: “Sau khi từ Pháp trở về nước dạy học, tôi tìm đọc lịch sử Việt Nam, dù rất tôn trọng các tác giả, nhưng cảm thấy phương pháp khảo cứu và biên soạn cần được nâng cao, phải khoa học hơn, hiện đại hơn”. Vì lẽ đó ông đi vào nghiên cứu lịch sử với hoài bão thúc đẩy sự phát triển của sử học, giúp người đọc cảm thấy tin cậy, rút ra kết luận có sức thuyết phục về mặt khoa học.

“Những công trình nghiên cứu của giáo sư Hãn có ảnh hưởng sâu sắc trong giới sử học Việt Nam, nhất là về tinh thần và phương pháp nghiên cứu”, giáo sư Lê viết.

Nặng lòng với quê hương

Nhiều lần tiếp xúc với giáo sư Hoàng Xuân Hãn, phó giáo sư Toán học Hoàng Kỳ, Đại học Vinh, cho hay ông là người yêu nước chân tình và sâu sắc. Có lần, một vị khách hỏi GS Hãn quê ở đâu, ông đáp lạnh lùng: “Quê tôi ở Việt Nam!”.

Khi nghe kể về những gian khổ trong chiến tranh và sự thiếu thốn trong thời bình của thầy trò vùng Đức Thọ (tỉnh Hà Tĩnh) – nơi giáo sư Hãn sinh ra, ông bùi ngùi xúc động, sau đó ngồi trầm tư. “Giáo sư Hãn rất quan tâm đến hiện trạng của trường Đại học Sư phạm Vinh, hỏi tỉ mỉ về các khoa, số lượng thầy giáo và sinh viên, chất lượng đào tạo, thuận lợi và khó khăn… hứa sẵn lòng giúp đỡ nhà trường”, phó giáo sư Kỳ cho hay.

Giáo sư, tiến sĩ nông học Trần Văn Hà kể trong cuộc gặp giáo sư Hoàng Xuân Hãn năm 1992 tại nhà riêng ở chung cư số 60, đại lộ Théophile-Gauthier, quận 16, Paris, câu đầu tiên mà tiền bối hỏi khiến ông sững sờ: “Núi Hồng Lĩnh có còn cây không anh? Việt Nam ta nay bắt đầu bằng gì, đi lên bằng cách nào?”.

Theo ông Hà, giáo sư Hãn phân tích Việt Nam phải đi lên bằng nông nghiệp, chú ý hơn nữa đến miền núi và miền biển, khai thác thì dứt khoát phải có kế hoạch bảo vệ. Lương thực một khi đã vững thì cần phát triển chăn nuôi bò, dê, lợn ở cả miền núi phía Bắc, phía Nam, đẩy mạnh công nghiệp chế biến. Nên nghĩ đến công nghiệp hóa cá lồng, hợp tác với Nhật Bản về nuôi ngọc trai đen…





TS Võ Hồng Hải (ngoài cùng bên phải) cùng đoàn đại biểu tỉnh Hà Tĩnh chụp ảnh lưu niệm tại nhà GS Hoàng Xuân Hãn (người mặc áo vest đen đứng giữa) tại Paris, tháng 3/1995. Ảnh: Võ Hồng Hải

TS Võ Hồng Hải (ngoài cùng bên phải) cùng đoàn đại biểu tỉnh Hà Tĩnh chụp ảnh lưu niệm tại nhà GS Hoàng Xuân Hãn (người mặc áo vest đen đứng giữa) tại Paris, tháng 3/1995. Ảnh: Võ Hồng Hải

Tiến sĩ Võ Hồng Hải, nguyên Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tĩnh, kể giáo sư Hãn đau đáu làm cho Hà Tĩnh một thư viện, tặng một tủ sách tư liệu Hán Nôm nhưng do thời điểm đó điều kiện kinh tế khó khăn nên không thể chuyên chở về. Thời điểm giáo sư Hãn cùng gia đình sang ngụ cư tại Pháp có nhiều ý kiến không hay, nhưng qua thời gian cho thấy việc ông rời đi là để cống hiến bền vững hơn cho nền văn hóa học thuật nước nhà.

Giáo sư Hoàng Xuân Hãn qua đời năm 1996. Theo di nguyện của ông, gia đình đã hỏa táng di cốt, một phần để ở chùa Trúc Lâm ngoại ô Paris, một phần rải trên đất Pháp, phần còn lại táng tại quê nhà, trên cổng và khu mộ có câu đối: Thân gửi xứ Người nương cửa Phật/ Hồn về đất Việt viếng quê nhà.

Sau khi mất, năm 1996, giáo sư Hoàng Xuân Hãn được Chủ tịch nước Lê Đức Anh truy tặng Huân chương Độc lập hạng nhì. Năm 2000, với nhóm ba công trình nghiên cứu về lịch sử và lịch Việt Nam, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên của ông được đặt cho nhiều con đường, trường học.

Đức Hùng

Tài liệu tham khảo:
La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập 1,2,3, NXB Giáo dục
– Danh nhân Hà Tĩnh tập 1,2 NXB Nghệ An

Tag: thoisu-vnexpress

How useful was this post?

Click on a star to rate it!

Average rating 5 / 5. Vote count: 3

No votes so far! Be the first to rate this post.