Dấu tích ‘Vạn lý trường thành miền Trung’ hơn 14 km ở Gia Lai

Dấu tích ‘Vạn lý trường thành miền Trung’ hơn 14 km ở Gia Lai – rss

Trường Lũy Gia Lai dài 14,4 km, từng là tuyến phòng thủ, quản lý biên giới và giao thương dưới triều Nguyễn, hiện nhiều đoạn xuống cấp, chưa được bảo tồn đúng mức.

Ngày 25/8, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Gia Lai phối hợp Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ tổ chức hội thảo khoa học Nghiên cứu giá trị và định hướng bảo tồn, phát huy di tích Trường Lũy.

Trường Lũy là hệ thống phòng thủ do các chúa Nguyễn xây dựng từ thế kỷ 16, được mở rộng và hoàn thiện quy mô dưới triều Nguyễn vào đầu thế kỷ 19. Công trình trải dài khoảng 127 km, qua Quảng Ngãi, Bình Định (cũ), Gia Lai, gồm các lũy đất, đồn bốt, đường cổ, hào phòng thủ. Toàn tuyến được ví như “Vạn lý trường thành miền Trung”.





Trường Lũy ở khu vực đồn An Quang được khai quật. Ảnh: Ngọc Oanh

Trường Lũy ở khu vực đồn An Quang được khai quật. Ảnh: Ngọc Oanh

Đoạn qua Gia Lai dài 14,4 km, bắt đầu từ xã Hoài Sơn (thị xã Hoài Nhơn cũ) đến khu vực giáp ranh xã Phổ Cường (huyện Đức Phổ cũ, Quảng Ngãi). Theo sử liệu, nơi đây từng có gần 20 đồn bảo, trong đó có bốn đồn lớn, tiêu biểu là Đồn Thứ (Đồn Đôi) ở thôn La Vuông, xã Hoài Sơn.

Tháng 6/2025, Bảo tàng tỉnh Gia Lai phối hợp Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ khai quật ba đồn lũy Dông Hầm, H4 và An Quang, diện tích 200 m2. Các đồn được xây trên cao độ 400-800 m, bám theo sườn núi đá và thung lũng hẹp – địa hình phòng thủ thuận lợi. Đồn H4 có mặt bằng gần vuông, mỗi cạnh dài 40-50 m, tường lũy phủ cây bụi, tre gai. Hiện vật thu được ít, chủ yếu là gốm sứ dân dụng như nồi, bát, đĩa dùng trong sinh hoạt lính đồn trú.

Kết quả khảo sát cho thấy kỹ thuật xây dựng đa dạng: có đoạn hoàn toàn bằng đá, có đoạn đắp đất bên trong, kè đá bên ngoài; một số đồn còn dấu vết lối ra vào, chòi canh ở các góc tường. Theo các nhà nghiên cứu, điều này thể hiện sự sáng tạo, thích ứng cao với địa hình miền núi. Một số ý kiến cho rằng người H’rê có thể tham gia, kết hợp kỹ thuật xếp đá truyền thống của họ.

Về niên đại, nhiều tài liệu ghi nhận Trường Lũy được Tả quân Lê Văn Duyệt chỉ huy xây dựng năm 1819 dưới triều Gia Long. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng đoạn qua Gia Lai thực tế được dựng muộn hơn, vào năm 1876, khi vua Tự Đức chấp thuận đề xuất của Tổng đốc Bình – Phú Phạm Ý để đối phó tình hình bất ổn, đồng thời hợp nhất lũy Bình Định với lũy Quảng Ngãi thành tuyến “Ngãi – Định”.





Một đoạn tường của Đồn H4. Ảnh: Ngọc Oanh

Một đoạn tường của Đồn H4. Ảnh: Ngọc Oanh

Trường Lũy không chỉ có chức năng quân sự mà còn liên quan đến kinh tế, văn hóa. Sử liệu triều Nguyễn cho thấy ngoài phòng thủ, công trình này góp phần quản lý dân cư, thu thuế, điều tiết giao thương giữa miền xuôi và miền ngược. Đầu thế kỷ 19, triều đình còn lập các “nguồn” Trà Vân, Trà Bình – đơn vị hành chính đặc biệt kiêm quân sự, kinh tế – để kiểm soát vùng núi phía Tây Bồng Sơn.

Tại hội thảo, nhiều nhà khoa học cho rằng Trường Lũy Gia Lai tuy ngắn nhưng vẫn giữ được nhiều đặc trưng kiến trúc và vật liệu nguyên vẹn, là cứ liệu quý để nghiên cứu nghệ thuật phòng thủ núi rừng thời Nguyễn. Song cũng còn nhiều vấn đề chưa thống nhất, như chiều dài chính xác, thời điểm xây dựng, lực lượng tham gia, hay vai trò ưu tiên giữa quân sự và kinh tế.

Theo tiến sĩ Nguyễn Khánh Trung Kiên, Phó viện trưởng Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, Trường Lũy là hệ thống phòng thủ quy mô lớn, được hoàn thiện dưới triều Gia Long. “Kỹ thuật xây dựng thể hiện sự sáng tạo, vừa đảm bảo phòng thủ, vừa thích ứng với địa hình miền Trung”, ông nói.





Tiến sĩ Nguyễn Khánh Trung Kiên phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Trần Hóa

Tiến sĩ Nguyễn Khánh Trung Kiên phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Trần Hóa

Trong khi đó, tiến sĩ Nguyễn Công Thành, Đại học Quy Nhơn, cho rằng Trường Lũy Gia Lai chưa được nghiên cứu đầy đủ, cần làm rõ thời điểm khởi dựng. Ông nhấn mạnh đến các căn cứ sử liệu cho thấy năm 1876, triều Nguyễn mới xây thêm lũy Bình Định – đoạn ngày nay thuộc Gia Lai.

Hiện Trường Lũy Gia Lai mới được đưa vào danh mục kiểm kê di tích cấp tỉnh từ tháng 4/2025, chưa được bảo vệ đúng mức. Nhiều đoạn hư hại do thời gian, thiên tai, canh tác, khai thác đất đá. Việc bảo tồn gặp khó khăn vì công trình phân bố trên địa hình phức tạp, một số đoạn nằm trong đất sản xuất của người dân, khó khoanh vùng, giải tỏa. Kinh phí khảo sát, cắm mốc, bảo vệ cũng rất lớn.

Kết luận hội thảo, tiến sĩ Kiên cho rằng các ý kiến thảo luận là cơ sở quan trọng để lập hồ sơ di tích cấp quốc gia, từ đó có cơ sở pháp lý triển khai biện pháp bảo vệ. “Trường Lũy Gia Lai cần sớm được nghiên cứu sâu hơn và có chính sách bảo tồn phù hợp, trước khi bị mai một bởi thời gian và tác động con người”, ông nhấn mạnh.

Trần Hóa

Tag: thoisu-vnexpress

How useful was this post?

Click on a star to rate it!

Average rating 5 / 5. Vote count: 7

No votes so far! Be the first to rate this post.