
Một nạn nhân bị “bắt cóc online” được công an tìm thấy – Ảnh: TTXVN
Gần đây rộ lên nạn “bắt cóc online”, một hình thức tội phạm mạng mới, khiến nhiều người bất an. Nạn nhân phần lớn là người trẻ (học sinh, sinh viên…), bị kẻ lừa đảo giả danh công an khống chế tinh thần, buộc đóng giả bị bắt cóc (không phải bị bắt cóc thật), sau đó ép phụ huynh chuyển tiền chuộc con.
Rất may là công an nhiều địa phương (Hà Nội, TP.HCM, Quảng Ninh, Cần Thơ…) đã kịp thời ngăn chặn, giải cứu một số người bị hại. Vậy tội phạm lừa đảo trực tuyến bị xử lý sao? Có khác gì nhau giữa người chủ động với người bị lừa tham gia lừa đảo người khác?
Có thể xem xét nhiều tội danh
Theo luật sư Nguyễn Thị Thu Tâm (Đoàn luật sư TP.HCM), điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và 2025) quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tùy theo số tiền chiếm đoạt mà người phạm tội phải chịu các khung hình phạt khác nhau, mức hình phạt cao nhất là tù chung thân.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 7 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Cũng cần lưu ý là tùy vào dấu hiệu quy định mà hành vi sử dụng môi trường Internet để lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có thể bị xử lý về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo điều 290 Bộ luật Hình sự nêu trên với mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Theo đó, người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi quy định, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại điều 173 (tội trộm cắp tài sản) và điều 174 như đã nêu thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Cụ thể: a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản…
Về yếu tố cố ý lừa đảo hay bị lừa đi lừa đảo như đã được phản ảnh thì cần phải để cơ quan công an điều tra, xác minh mới rõ đúng sai. Theo luật định, việc truy cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được áp dụng đối với người có năng lực trách nhiệm hình sự, từ đủ 16 tuổi trở lên và đã thực hiện hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản.
Chi tiết hơn, người phạm tội nhận thức rõ về tính chất nguy hiểm của hành vi mà mình thực hiện là xâm phạm sở hữu của người khác, nhận thức rõ rằng dữ liệu mà mình cung cấp là hoàn toàn không trung thực, biết rõ mối đe dọa cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn muốn hậu quả đó xảy ra nhằm mục đích chiếm hữu tài sản của người khác.
Bị ép buộc thì có được giảm trách nhiệm không?
Còn luật sư Hoàng Văn Hướng (Đoàn luật sư TP Hà Nội) thì cho rằng căn cứ theo pháp luật hình sự Việt Nam, việc xác định trách nhiệm hình sự của những người này sẽ dựa trên nhiều yếu tố, đặc biệt là hành vi và ý chí của từng người. Do đó, những người Việt được cho là đã tham gia vào đường dây lừa đảo có thể chia thành hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Đó là những người bị ép buộc làm việc, bị đe dọa, hành hạ (đánh đập, chích điện, bỏ đói) để thực hiện hành vi lừa đảo thì có thể được xem xét là rơi vào trường hợp không có ý chí chủ quan để lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tức là không thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm.
Trường hợp này, họ không có ý chí chiếm đoạt tài sản mà phải làm theo lệnh của kẻ chủ mưu do bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, cơ quan bảo vệ pháp luật cần điều tra làm rõ mức độ bị ép buộc, sự thật về việc họ có thể chống lại hay không, và liệu họ có thực sự bị đe dọa đến mức buộc phải làm theo hay không.
Trường hợp thứ hai: Đó là những người chủ động tham gia, nếu những người này chủ động tham gia vào đường dây lừa đảo vì lợi ích cá nhân hay vì bất kỳ lý do nào khác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (điều 174 Bộ luật Hình sự 2015). Mức hình phạt phụ thuộc vào vị trí, vai trò và tính chất của tội phạm trong vụ án.
Nếu những người này biết rõ về hành vi lừa đảo nhưng vẫn tham gia, họ có thể bị coi là đồng phạm. Cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ phải điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ để làm rõ vai trò, hành vi và mức độ tham gia của từng cá nhân để đưa ra kết luận.
Ví dụ: một người được tiếp nhận từ sự truy quét của lực lượng chức năng Campuchia bàn giao cho Công an Việt Nam, người này có lời khai bị cưỡng ép làm việc, nhưng lại có nhiều lần xuất cảnh từ Việt Nam đến Campuchia trong một thời điểm gần nhau; trong khi đó, đến Campuchia vẫn là công việc đó (gọi điện thoại lừa đảo) thì không thể gọi là bị cưỡng ép thực hiện hành vi được và chắc chắn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Tức là ngoài lời khai của những người được Campuchia bàn giao về (người giả danh nhân viên điện lực, thuế…) thì cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ xác minh và căn cứ vào nhiều nguồn chứng cứ khác để đưa ra kết luận có xử lý trách nhiệm hình sự hay quan hệ pháp luật khác.
Hiện nay có rất nhiều đối tượng làm việc tại Campuchia thực hiện hành vi giả danh nhân viên điện lực, ngân hàng, công an.. gọi điện, gửi tin nhắn, website giả, lừa nạn nhân chuyển tiền hoặc cung cấp OTP để chiếm đoạt tài sản của người Việt Nam.
Ngoài những đối tượng bị ép buộc sang nước bạn để thực hiện hành vi phạm tội thì vẫn có nhiều đối tượng cố ý thực hiện hành vi, câu kết, trực tiếp lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chính người Việt Nam. Đây chính là hành vi vi phạm pháp luật theo pháp luật của Việt Nam.
Phạm tội ở nước ngoài có thể bị dẫn độ về Việt Nam
Theo luật sư Võ Công Hạnh (Đoàn luật sư TP Huế), những đối tượng người Việt Nam giả danh nhân viên điện lực, ngân hàng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân Việt Nam, sau đó bị phát hiện và được trao trả hoặc dẫn độ về Việt Nam, sẽ bị xử lý theo quy trình điều tra, truy tố và xét xử theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Với các đối tượng này, ngoài hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có thể bị khởi tố thêm hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để chiếm đoạt tài sản (điều 290 Bộ luật Hình sự). Hoặc tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (nếu có yếu tố liên quan đến việc đưa người sang Campuchia để lừa đảo, theo điều 349 Bộ luật Hình sự).
Trong trường hợp nếu đối tượng phạm tội tại Campuchia thì có thể bị xét xử tại Campuchia trước khi được trao trả về Việt Nam (nếu hai bên có thỏa thuận).
Tuy nhiên, trong đa số trường hợp, do bị hại là người Việt và đối tượng là công dân Việt Nam, Campuchia thường trục xuất hoặc bàn giao lại cho Việt Nam để xử lý.
Những đối tượng này sẽ bị xử lý nghiêm khắc theo pháp luật hình sự Việt Nam. Quá trình điều tra – truy tố – xét xử vẫn đảm bảo quyền con người, nhưng không khoan nhượng với tội phạm lừa đảo công nghệ cao.